TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUYỀN CON NGƯỜI VÙNG DÂN TỘC, MIỀN NÚI (HRC)

» Môi trường & Sức khỏe » Ung thư trung biểu mô và phân tích tổng hợp

Ung thư trung biểu mô và phân tích tổng hợp

22:30 | 22/04/2023
Ung thư trung biểu mô ác tính có liên quan tới phơi nhiễm nghề nghiệp, trong gia đình và môi trường với amiăng

Những nghiên cứu trên động vật thí nghiệm

Sau khi tiêm amiăng trắng vào trong màng phổi hoặc màng bụng, cảm ứng ung thư trung biểu mô được quan sát thấy một cách nhất quán ở chuột khi các mẫu bệnh phẩm có chứa số lượng sợi đủ với một độ dài sợi lớn hơn 5 μm. Trong một số nghiên cứu ở chuột, ung thư trung biểu mô cũng được thấy sau khi phơi nhiễm hít vào với amiăng trắng (1).

Những nghiên cứu ở người

Phơi nhiễm nghề nghiệp

Một số lượng vượt trội ung thư trung biểu mô đã được báo cáo trong các nghiên cứu thuần tập với các thợ mỏ và thợ nghiền sàng phơi nhiễm với amiăng trắng (38 ca trong tổng số 6161 ca tử vong) ở Quebec, Canada (3), và ở những công nhân dệt sợi amiăng (3 ca trong tổng số 1961 ca tử vong) ở Nam Carolina, Hoa Kỳ, là những người chủ yếu phơi nhiễm với amiăng trắng được nhập khẩu từ Quebec (6). Tuy nhiên, thực tế là amiăng trắng được khai thác từ mỏ ở Quebec bị nhiễm một lượng nhỏ phần trăm (< 1%) amiăng amphibole (tremolite) làm cho phức tạp việc phiên giải những kết quả này. McDonald và cộng sự (70) thấy rằng ở những vùng khai mỏ tại Quebec, tỷ lệ tử vong do ung thư trung biểu mô cao gấp hơn 3 lần trong số những công nhân ở mỏ tại Thetford Mines, một khu vực có nồng độ tremolite cao hơn. Tuy nhiên, Begin và cộng sự. (71) cho thấy rằng mặc dù các mức tremolite có thể cao hơn gấp 7.5 lần ở Thetford Mines so với Asbestos, tỷ lệ ung thư trung biểu mô ở công nhân mỏ/nghiền sàng amiăng của 2 thành phố này là tương tự nhau. Điều này không ủng hộ cho nhận thức rằng hàm lượng tremolite của quặng là yếu tố chính gây ung thư trung biểu mô cho công nhân amiăng trắng ở Quebec.

Không có ca ung thư trung biểu mô nào trong tổng số 803 ca tử vong được quan sát thấy ở Connecticut, Hoa Kỳ, công nhân nhà máy vật liệu ma sát bị phơi nhiễm với amiăng trắng (52).

Có 2 ca u màng phổi ác tính trong số những công nhân dệt amiăng nhận được đền bù vì bệnh bụi phổi amiăng do công việc gây ra ở Italy; điều này cho thấy nguy cơ lớn (SMR: 22.86; 95% CI: 2.78–82.57). Còn có sự gia tăng lớn hơn về nguy cơ u màng bụng. Phơi nhiễm được mô tả “chủ yếu là amiăng trắng”, nhưng không có số liệu định lượng về việc phơi nhiễm được cung cấp (53).

Trong số 126 ca ung thư trung biểu mô được xác định ở 6 bệnh viện chuyển tuyến tại Nam Phi, có 23 ca đã khai mỏ crocidolite tại Cape; 3 đã khai mỏ amosite; và 3, khai mỏ crocidolite và cả amosite. Không có ca nào chỉ phơi nhiễm với amiăng trắng (72). Cần chú ý là việc khai thác mỏ amiăng trắng bắt đầu muộn hơn và cấp độ sản xuất cũng thấp hơn so với các mỏ crocidolite và amosite tại Nam Phi.

Những ca ung thư trung biểu mô được báo cáo của công nhân mỏ amiăng tại Zimbabwe (73). Amiăng trắng từ Zimbabwe được báo cáo là chứa tremolite ít hơn 3 cấp so với tremolite ở Thetford Mines, Quebec (74).

Những công nhân dệt sợi amiăng ở Bắc Carolina, Hoa Kỳ, chủ yếu bị phơi nhiễm với amiăng trắng nhập từ Quebec, Canada. Một số lượng lớn ung thư trung biểu mô (SMR: 10.92; 95% CI: 2.98–27.96) và ung thư màng phổi (SMR: 12.43; 95% CI: 3.39–31.83) đã được quan sát thấy (7).

Hai ca ung thư trung biểu mô được thấy trong nghiên cứu 1990 ở mỏ amiăng trắng tại Balangero, Italy (54). Tuy nhiên, trong một theo dõi tiếp sau đến 2003, có 4 ca ung thư màng phổi và một ung thư trung biểu mô bụng được xác định, với các SMR là 4.67 (95% CI: 1.27–11.96) ung thư trung biểu mô màng phổi và 3.16 (95% CI: 1.02–7.36) cho tất các loại ung thư trung biểu mô (5).

Phơi nhiễm phi nghề nghiệp

Kể từ khi loạt các ca lớn đầu tiên do Wagner và các đồng nghiệp (75) xem mối liên quan giữa ung thư trung biểu mô ác tính với phơi nhiễm nghề nghiệp, trong gia đình và môi trường với amiăng, có ít nhất 376 ca ung thư trung biểu mô trong đó phơi nhiễm với amiăng được coi là tác nhân gây bệnh được công bố với khoảng 60 báo cáo khoa học (76).

Ba ca ung thư trung biểu mô được xác định từ năm 1980–2006 do việc đăng ký ung thư trung biểu mô ở Piedmont, miền Bắc nước Italy, trong số những nhân viên văn phòng ở mỏ amiăng trắng Balangero, có 3 nhân viên của 1 nhà thầu phụ làm nghề lái xe tải ở mỏ, bốn trong số những người sống cạnh mỏ, một người vợ của thợ mỏ và 5 ca có tiếp xúc với những chất thải chính (4). Không thấy phát hiện có sợi amphiboles, nhưng 0.2–0.5% của sợi silicate, balangeroite, được xác định trong amiăng trắng khai thác ở mỏ tại Balangero (54).

Trong một thuần tập gồm 1780 người vợ (không làm việc ở các xưởng amiăng) của những công nhân xi-măng amiăng tại Casale Monferrato, Italy, nguy cơ tử vong do u màng phổi ác tính gia tăng trong những năm từ 1965–2003 (SMR: 18.00; 95% CI: 11.14–27.52). Amiăng được sử dụng chủ yếu là amiăng trắng, nhưng cũng bao gồm khoảng 10% crocidolite (56, 77). Tỷ lệ nhiễm ung thư trung biểu mô màng phổi được xác định bằng mô học trong những năm 1999–2001 cũng đã gia tăng theo cách dựa trên thời gian phơi nhiễm và ủ bệnh, đạt ở mức SIR là 50.59 (95% CI: 13.78–129.53) trong nhóm với tiềm ẩn ít nhất 40 năm và thời gian phơi nhiễm là ít nhất 20 năm.

Trong một nghiên cứu bệnh – chứng dựa vào quần thể ở một khu vực y tế địa phương tại Casale Monferrato, Italy, mối tương quan giữa phơi nhiễm phi nghề nghiệp với amiăng và ung thư trung biểu mô ác tính được xem xét với 116 ca ung thư trung biểu mô được chẩn đoán những năm 1987–1993 và 330 ca chứng. Tỷ suất chênh (OR) đối với những ca là vợ của công nhân amiăng là 4.5 (95% CI: 1.8–11.1); OR đối với những ca là con cái của công nhân amiăng là 7.4 (95% CI: 1.9–28.1). Nguy cơ có mối tương quan nghịch đảo với khoảng cách giữa nơi cư trú và nhà máy amiăng, đạt mức OR là 27.7 (95% CI: 3.1–247.7) đối với những người đã từng sống dưới 500 m tính từ nhà máy. Năm 1984, nồng độ trung bình của amiăng trong không khí được báo cáo là 0.011 sợi/mL ở gần nhà máy và 0.001 sợi/mL ở nơi dân cư. Trong những nghiên cứu khác nhau, tỷ lệ amphiboles thay đổi từ 3% đến 50% tổng số sợi amiăng (78).

Trong 162 ca nữ tử vong vì ung thư trung biểu mô ở Canada và ở Hoa Kỳ trong những năm từ 1966–1972, 3 ca xảy ra với vợ của công nhân tại các mỏ amiăng trắng ở Quebec (79). Trong 1 nghiên cứu bệnh – chứng trong số những người vợ của công nhân tại các mỏ amiăng trắng ở Quebec, nguy cơ của việc chung sống với thợ mỏ dưới 40 năm có liên quan đến nguy cơ ung thư trung biểu mô là 3.9 (95% CI: 0.4–35); nguy cơ của việc chung sống với thợ mỏ trên 40 năm có liên quan đến nguy cơ là 7.5 (95% CI: 0.8–72). Tất cả các ca bệnh đã sống với một người công nhân ở mỏ tại Thetford Mines, nơi đó quặng amiăng trắng bị nhiễm với tremolite (80).

Tại một vài nước hay khu vực ở những nơi khác nhau trên thế giới – Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Síp, Corsica, Sicily, Tân Caledonia, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, và California, Hoa Kỳ – có những khu vực có tỷ lệ mắc ung thư trung biểu mô cao, rõ ràng là do amiăng hoặc erionite trong đất (1, 81).

Trong một nghiên cứu bệnh – chứng với 1133 ca ung thư trung biểu mô và 890 ca đối chứng ở California, nguy cơ ung thư trung biểu mô được quan sát có quan hệ đảo nghịch với khoảng cách của khu cư trú đến nơi có đá amiăng ultramafic xuất hiện tự nhiên có chứa amiăng serpentinic. Nguy cơ ung thư trung biểu mô sụt giảm với SMR là 0.937 (95% CI: 0895–0.982) trên 10 km khoảng cách, được điều chỉnh với tuổi và xác suất phơi nhiễm amiăng nghề nghiệp (82).

Trong một nghiên cứu ca bệnh – chứng với 68 ca ung thư trung biểu mô ở Tân Caledonia, tỷ lệ hiện nhiễm ung thư trung biểu mô ở những khu vực khác nhau ở đảo quốc có liên quan tới hàm lượng serpentinite trong đất, không phải với hoạt động khai thác mỏ hay sử dụng vôi truyền thống, “pö”, để làm nhà (83).

Phân tích tổng hợp

Từ một phân tich tổng hợp những nghiên cứu thuần tập với những số liệu định lượng về phơi nhiễm, Hodgson & Darnton (60) đã ước lượng rằng nguy cơ ung thư trung biểu mô vượt trội là 0.1% trên sợi-năm/mL cho những thuần tập bị phơi nhiễm với amiăng trắng.

Việc phân tích tổng hợp do Berman & Crump (64) thực hiện dựa trên phân tích hệ số nghiêng/dốc được ước tính cho rằng tỷ lệ tử vong do ung thư trung biểu mô gia tăng sau khi ngừng phơi nhiễm khoảng bình phương thời gian kể từ khi có phơi nhiễm đầu tiên (độ trễ thời gian là 10 năm). Hệ số nghiêng/dốc, cho ta biết mức độ gây ung thư, được ước tính là 0.15× 10−8 trên năm2 × sợi/mL cho các nhà máy ở Nam Carolina, Hoa Kỳ, và 0.018 × 10−8 trên năm2 × sợi/mL cho các mỏ ở Quebec, Canada, thể hiện phơi nhiễm với amiăng trắng, trong khi đó ước tính cho nhà máy sử dụng loại amiăng amosite ở Patterson, New Jersey, Hoa Kỳ, là 3.9 × 10−8 trên năm2 × sợi/mL. Trong một phân tích tiếp theo có xem xét kích cỡ sợi, giả thiết là dạng amiăng trắng và amphibole của amiăng nói chung là đẳng thế đã bị phản bác mạnh mẽ (P ≤ 0.001), và giả thiết là mức độ gây ung thư của amiăng trắng là bằng không lại không bị phản bác (P ≥ 0.29).

Nhóm Công tác IARC (1) đã ghi nhận rằng có mức độ bất định cao liên quan đến tính chính xác của những ước tính về mức độ tương đối có từ những phân tích của Hodgson & Darnton (60) và Berman & Crump (64) vì khả năng rất cao phân loại phơi nhiễm nhầm trong những nghiên cứu này.

Nghiên cứu những công nhân dệt ở Bắc Carolina, Hoa Kỳ (7), không được đưa vào phân tích tổng hợp. Dựa trên phương thức do Hodgson & Darnton (60) sử dụng, những tác giả của nghiên cứu Bắc Carolina (7) ước tính rằng tỷ lệ phần trăm tử vong là 0.0098% trên sợi-năm/mL đối với những công nhân được theo dõi trong ít nhất 20 năm. Ước tính này là cao hơn đáng kể so với ước tính ban đầu được Hodgson & Darnton (60) xây dựng là 0.001% trên sợi-năm/mL cho những thuần tập bị phơi nhiễm với amiăng trắng.

Bourdes và các đồng nghiệp (84) thực hiện phân tích tổng hợp những nghiên cứu đã có về phơi nhiễm của các hộ gia đình và hàng xóm với amiăng và nguy cơ ung thư trung biểu mô và đã rút ra ước lượng tóm tắt RR là 8.1 (95% CI: 5.3–12) cho phơi nhiễm hộ gia đình và 7.0 (95% CI: 4.7–11) cho phơi nhiễm của hàng xóm

Nguồn:Internet

Tin cùng loại