TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUYỀN CON NGƯỜI VÙNG DÂN TỘC, MIỀN NÚI (HRC)

» Môi trường & Sức khỏe » Bệnh bụi Amiăng

Bệnh bụi Amiăng

00:38 | 22/04/2023
Bệnh bụi amiăng là một viêm phổi mô kẽ và xơ hóa do tiếp xúc với những sợi amiăng, gặp ở 10% công nhân làm các vật liệu cách ly có chứa amiăng với thời gian tiếp xúc từ 10 - 19 năm, ở 73% tiếp xúc từ 20 - 29 năm.
  1. Dịch tễ học:
    Amiăng là một hợp chất gồm silicat, sắt, magiê, nhôm, kẽm, kền, … có dạng sợi mãnh, nhỏ. Amiăng là một nguyên liệu quan trọng trong ngành công nghiệp hiện đại, có nhiều ứng dụng: ngói lợp nhà, quần áo chống cháy, bọc dây cách nhiệt,…

Bệnh bụi amiăng là một viêm phổi mô kẽ và xơ hóa do tiếp xúc với những sợi amiăng, gặp ở 10% công nhân làm các vật liệu cách ly có chứa amiăng với thời gian tiếp xúc từ 10 - 19 năm, ở 73% tiếp xúc từ 20 - 29 năm, và ở 92% có thời gian tiếp xúc từ 40 năm trở lên.

Một mối quan hệ liều lượng-phản ứng tương tự cũng được tìm thấy trong ngành kỹ nghệ ximăng có chứa amiăng. Ở Việt Nam, trong những công nhân tiếp xúc bụi trên 10 năm ở một nhà máy ngói ximăng, đã phát hiện có 4,5% bị bệnh bụi amiăng.

Hút thuốc lá có thể ành hưởng đến bệnh bụi amiăng. Những người hút thuốc lá hoặc đã bỏ thuốc lá có một tỉ lệ xuất hiện những hình mờ trên phim lồng ngực có liên quan đến bụi amiăng cao hơn so với những đồng nghiệp không hút.

Tương tự, tỉ lệ tử vong do bệnh bụi amiăng ở những công nhân tiếp xúc với amiăng có hút thuốc cao hơn những đồng nghiệp không hút thuốc. Nguy cơ giảm nếu người công nhân bỏ thuốc. Cơ chế liên hệ giữa amiăng và hút thuốc lá chưa rõ, tuy vậy, khói thuốc lá có thể can thiệp vào việc làm sạch amiăng hít vào, gây tăng hậu quả trên phổi của bụi.

  1. Bệnh học:
    Đặc điểm về phương diện bệnh học của bệnh bụi amiăng là sự xơ hóa mô kẽ, sự gia tăng số lượng thể amiăng màu nâu đỏ và những sợi amiăng không bị bao bọc. Thể màu nâu đỏ là những sợi amiăng được bao bọc chất sắt protein .

Bệnh bụi amiăng thường bắt đầu dưới màng phổi, ở vùng đáy phổi. Nếu tiến triển, nó có thể xơ hóa lan tỏa cả hai phổi. Ở những giai đoạn cuối, phổi có thể có hình dạng lỗ chỗ như tổ ong, và có thể không phân biệt được về phương diện X-quang với những dạng xơ mô kẽ khác.

Những nghiên cứu gần đây gợi ý rằng phản ứng tạo xơ với những sợi amiăng hít vào đã bắt đầu ngay trong vài giờ tiếp xúc, sau đó là thương tổn hóa học, cơ học, viêm, miễn dịch qua trung gian đại thực bào ở mức độ tế bào phế nang.

  1. Sinh bệnh học:
    Các sợi amiăng thường lắng đọng ở các chỗ chia đôi của khí đạo, ở các tiểu phế quản hô hấp và ở các phế nang, sau đó chúng di chuyển vào mô kẽ, một phần thông qua một tiến trình có liên quan đến các tế bào biểu mô phế nang type I, điều này làm huy động các đại thực bào gây ra viêm phế nang đại thực bào.

Sau đó, hầu như các sợi này bị quét sạch, không để lại dấu vết gì. Nhưng nếu sự làm sạch đó không hoàn toàn, tiến trình xơ hóa có thể xảy ra. Mức độ xơ hóa trong bệnh bụi amiăng, nói chung, có liên quan đến lượng bụi phổi. Nếu số lượng này nhỏ, phản ứng mô có thể giói hạn, bệnh có thể nhẹ và không tiến triển. Nếu lượng bụi này lớn, phản ứng mô và viêm phế nang đại thực bào nặng nề hơn, thương tổn lớn hơn, bệnh phổi tiến triển và mãn tính có thể phát triển.

  1. Triệu chứng lâm sàng:

* Khó thở khi gắng sức là triệu chứng sớm nhất, gần như hằng định, và luôn luôn là triệu chứng trầm trọng nhất của bệnh bụi amiăng.

* Kèm theo có ho kéo dài, có thể do co thắt phế quản, và khạc đàm.

* Có thể có khò khè, ít gặp cảm giác ép ngực.

* Các ran thường có ở hai bên phổi, từ cuối cho đến toàn thì hít vào, nghe rõ nhất ở vùng đáy phổi, phía sau và không mất khi ho.

* Ngón tay dùi trống.

      5.Triệu chứng cận lâm sàng:

* Trong bệnh bụi amiăng, phim X-quang lồng ngực trước-sau tiêu chuẩn cho thấy những hình mờ lưới-nốt hai bên, chiếm ưu thế ở những vùng phổi dưới, có hoặc không kèm theo dày màng phổi .

Phân loại X-quang Quốc tế về Bệnh Bụi phổi năm 1980 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã trình bày những đề mục cho việc đọc phim X-quang bệnh bụi amiăng; tuy nhiên, việc thiếu những bằng chứng rõ ràng vẫn không loại trừ được chẩn đoán. Một số nghiên cứu bệnh học lâm sàng đã chứng minh bệnh bụi amiăng trên sinh thiết phổi ở 10 - 20% bệnh nhân có hình ảnh X-quang lồng ngực bình thường.

* Chụp cắt lớp điện toán với lát cắt mỏng, độ phân giải cao (HRCT) có thể cung cấp những bằng chứng khách quan về bệnh mô kẽ trên các đối tượng có X-quang lồng ngực bình thường, hoặc nghi ngờ, hoặc có bất thường nhu mô nhẹ.

Năm biểu hiện HRCT của bệnh bụi amiăng đã được xác định là:

  • đường cong dưới màng phổi,
  • các vàch trong thùy gia tăng,
  • các bóng mờ phụ thuọc,
  • các dãi nhu mô cùng các cấu trúc lõi liên thùy,
  • và hình tổ ong.

* Các xét nghiệm chức năng phổi có thể cho thấy một tổn thương hạn chế với sự sút giảm các thể tích phổi (đặc biệt là dung tích sống gắng sức và tổng dung tích phổi), khả năng khuếch tán CO, và giảm Ôxygen máu động mạch.

* Tắc nghẽn khí đạo nhẹ cũng có thể được phát hiện ở những người mắc bệnh bụi amiăng không hút thuốc lá. Chức năng phổi của những bệnh nhân này thường biểu hiện một thương tổn hạn chế, gia tăng thể tích đồng lưu và một sự gia tăng kháng lực ngược dòng.

Sinh thiết phổi mở gợi ý tình trạng tắc nghẽn có thể do xơ hóa quanh tiểu phế quản vì có sự thâm nhiễm quanh tiểu phế quản của các đại thực bào và sự xơ hóa lan tỏa vào mô kẽ xung quanh. Như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên là ở những mức độ nhẹ hơn của bệnh bụi amiăng lại biểu hiện bất thường hỗn hợp giữa hạn chế và tắc nghẽn.

* Bất thường sớm nhất của xét nghiệm chức năng phổi là giảm compliance (nghĩa là độ cứng gia tăng). Xét nghiệm gắng sức giúp xác định bệnh phổi có biểu hiện lâm sàng trên những cá nhân có khó thở mà chức năng phổi tương đối bình thường.

  1. Chẩn đoán:
    Một chẩn đoán bệnh bụi amiăng trên bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng nêu trên đòi hỏi phải có:

* Một tiền sử tiếp xúc với amiăng ở một mức độ đủ để bệnh nhân có nguy cơ phát triển hội chứng này: thời gian bắt đầu tiếp xúc, tổng thời gian tiếp xúc, loại và mức độ tiếp xúc; thường thời gian tiếp xúc từ 10 - 20 năm đủ để gây bệnh.

* Phải chứng tỏ có xơ phổi.

* Phim X-quang lồng ngực trước-sau là yếu tố quan trọng nhất trước đây.Khi thay đổi trên phim X-quang và xét nghiệm chức năng phổi không giúp chẩn đoán chắc chắn, người ta dùng CT. scanner, phương tiện này thường cho thấy các đặc điểm nhu mô bất thường, các mãng ở màng phổi và/hoặc sự xơ màng phổi. Những thương tổn này, nhất là khi có cả hai bên, là những gợi ý rất giá trị về sự tiếp xúc với amiăng.

* Sinh thiết phổi mở được chỉ định khi bệnh nhân không có tiền sử tiếp xúc đầy đủ với amiăng, hoặc khi các triệu chứng lâm sàng không rõ ràng.

  1. Điều trị và tiên lượng:
    Những nguyên nhân chính gây hoành hành triệu chứng và tử vong ở những bệnh nhân mắc bệnh bụi amiăng là do sự tiến triển của bệnh phổi có sẵn, sự phát triển của ung thư phổi và u trung biểu mô ác tính. Những nghiên cứu dọc trên những nhân viên mậu dịch có tiếp xúc với amiăng cho thấy chức năng phổi bị giảm nhanh chóng.

Hiện chưa có phương cách điều trị bệnh bụi amiăng, nhưng cũng cần theo dõi các bệnh nhân này do các nguy cơ mắc ung thư phổi và trung biểu mô.

Nguồn: Internet

Tin cùng loại