Trong số 8009 ca tử vong của công nhân mỏ và nghiền sàng ở Quebec, Canada, từ năm 1972–1992, có 108 ca là do bệnh bụi phổi. Ở thuần tập Nam Carolina, Hoa Kỳ, SMR của bệnh bụi phổi và các bệnh phổi khác là 4.81 (95% CI: 3.84–5.94), và SMR cho bệnh bụi phổi amiăng là 232.5 (95% CI: 162.8–321.9); có 36 ca tử vong do bệnh bụi phổi amiăng và 86 ca do bệnh bụi phổi trong tổng số 1961 ca tử vong. Trong thuần tập công nhân dệt sợi amiăng trắng ở Bắc Carolina, Hoa Kỳ, SMR của bệnh bụi phổi là 3.48 (95% CI: 2.73–4.38).
SMR cho bệnh bụi phổi amiăng của thuần tập công nhân dệt amiăng trắng người Trung Quốc là 100 (95% CI: 72.55–137.83) . ở thuần tập công nhân mỏ tai Balangero, Italy, có 21 ca bệnh bụi phổi amiăng trong tổng số 590 ca tử vong
Tuy nhiên, cần chú ý là bệnh bụi phổi chưa từng bao giờ được ghi nhận một cách đáng tin cậy như là một nguyên nhân gây tử vong trong những giấy chứng tử. Ngoài ra, các nghiên cứu về tử vong thường không đầy đủ để phát hiện những bệnh tật có ý nghĩa lâm sàng. Tương tự như vậy, những nghiên cứu về bệnh tật, những đặc tính căn nguyên hay chẩn đoán của các phương pháp đánh giá thông thường (tức là chụp X quang, xét nghiệm thực thể và hỏi về triệu chứng) là hạn chế. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng phơi nhiễm với amiăng trắng gây ra suy giảm chức năng phổi, thay đổi hình ảnh X quang là nhất quán với những thay đổi của bệnh bụi phổi và màng phổi
Một sự sụt giảm liên quan đến liều trong năng lực sống (P = 0.023) và thể tích thở ra (P < 0.001) được quan sát thấy với phơi nhiễm tích lũy gia tăng (tức là > 8 sợi-năm/mL) với amiăng trắng của công nhân mỏ và nghiền sàng ở Zimbabwe đã bị phơi nhiễm trên 10 năm
Chụp X-quang thay đổi ở công nhân dệt và sản phẩm ma sát ở Trung Quốc được Huang báo cáo Một thuần tập gồm 824 công nhân làm việc ít nhất 3 năm ở một nhà máy sản xuất sản phẩm amiăng trắng từ khi khai trương nhà máy năm 1958 đến tận năm 1980 và với theo dõi tiếp sau đến tháng 9 năm 1982 đã được nghiên cứu. Nhìn chung, 277 công nhân được chẩn đoán bị bệnh bụi phổi amiăng trong giai đoạn theo dõi tiếp sau, tương ứng với tỷ lệ hiện mắc 31%. Phân tích phơi nhiễm – đáp ứng, dựa trên số liệu trọng lực được chuyển đổi sang số lượng sợi, dự đoán tỷ lệ hiện nhiễm 1% bệnh bụi phổi amiăng độ I với phơi nhiễm tích lũy là 22 sợi-năm/mL.
Bệnh bụi phổi amiăng cũng được phát hiện trong 11.3% số người vợ của các công nhân đóng tàu có phơi nhiễm amiăng với 20 năm kinh nghiệm làm việc và với 7.6% số con trai của họ. Loại amiăng không được xác định cụ thể . Có một hay nhiều dấu hiệu X-quang được quan sát trong số 35% tiếp xúc trong gia đình của những công nhân cách nhiệt amiăng amosite . Tỷ lệ hiện mắc của bệnh vôi hóa màng phổi tăng gấp 10.2 lần (95% CI: 2.8–26.3) trong anh em ruột của những công nhân trong các nhà máy amiăng trắng và 17.0 lần (95% CI: 7.7–32.2) trong số những người sống gần một nhà máy sử dụng amiăng trắng của Nga và Canada
Kết luận của IPCS
Ngoài ung thư phổi và ung thư trung biểu mô, phơi nhiễm nghề nghiệp với amiăng trắng cũng gây ra các bệnh phổi không ác tính dẫn đến hư hại chức năng phổi, đặc biệt một dạng xơ hóa phổi được mô tả bằng thuật từ bệnh bụi phổi amiăng
Nguồn: Internet