Có thật là amiăng trắng ít có hại hơn các loại amiăng khác và vì thế không cần phụ thuộc vào các biện pháp kiểm soát tương tự ?
Bằng chứng khoa học là rõ ràng. Kết luận chắc chắn từ các đánh giá của WHO và IARC là amiăng trắng gây ung thư phổi, thanh quản và buồng trứng, ung thư trung biểu mô và bệnh bụi phổi amiăng, cho dù nó có ít độc hại hơn các loại amiăng amphibole trong việc gây ra ung thư hay không. Việc xác nhận về các đặc tính hóa lý khác nhau, vấn đề về liệu hay không các nghiên cứu dịch tễ học trong lịch sử có thể đề cập đến amiăng trắng bị lẫn/nhiễm với các loại amiăng amphibole, và việc loại amiăng amphibole có mặt một cách vật lý trong xi măng có mật độ cao hiện đại (vào lúc sản xuất) cũng không thay đổi được kết quả này.
Một quan tâm chính là thậm chí việc sử dụng được quản lý một cách phù hợp, các sản phẩm cho xây dựng có chứa amiăng trắng (v.d. tấm lợp mái, ống dẫn nước) bị hư hại và giải phóng ra sợi amiăng vào trong môi trường trong quá trình bảo dưỡng, phá dỡ nhà và vứt bỏ chất thải xây dựng, cũng như hậu quả của các thảm họa thiên nhiên. Việc phơi nhiễm như thế có thể diễn ra thời gian nào đó sau này chứ không phải lúc lắp đặt (được kiểm soát) ban đầu.
Nguy cơ này có thể hoàn toàn được ngăn chặn bằng việc ngừng sử dụng những sản phẩm như vậy. Thông tin về các nguyên vật liệu và sản phẩm thay thế có thể được sử dụng an toàn đều có từ các tổ chức cấp quốc gia, khu vực và quốc tế.
Nghiên cứu hiện tại hoặc tương lai về độc chất của amiăng trắng có thể thay đổi quan niệm hiện nay của WHO và IARC về việc gây ra ung thư không?
Hoàn toàn không. Quan điểm chắc chắn của WHO và IARC, dựa trên những đánh giá lặp lại về các bằng chứng khoa học rằng amiăng trắng gây ung thư phổi, thanh quản và buồng trứng, ung thư trung biểu mô và bệnh bụi phổi amiăng, và ngừng sử dụng tất cả các dạng amiăng, kể cả amiăng trắng, để ngăn ngừa phơi nhiễm với amiăng cần được công nhận là cách thức hiệu quả nhất để loại trừ các bệnh liên quan đến amiăng. Mặc dù khả năng gây ung thư của amiăng trắng đã được xác định rõ ràng, chỉ có một số nghiên cứu có đề cập tới phụ nữ. Cũng có những ung thư khác bị nghi ngờ là liên quan đến amiăng trắng, nhưng những nghiên cứu hiện tại vẫn chưa đề cập đầy đủ về chúng. Vì vậy, hiện nay liên tục có nhu cầu về những nghiên cứu tiếp theo để điều tra những nguy cơ của phơi nhiễm với amiăng trắng đối với các loại ung thư bổ sung khác, đặc biệt là những ung thư đặc thù đối với phụ nữ.
Có sẵn thông tin gì về các sản phẩm thay thế, đặc biệt là nguyên vật liệu xây dựng, khi có khẳng định là các chất sợi thay thế hiện đại cho amiăng trắng bản thân chúng là độc hại hoặc tính độc hại chưa xác định được ?
Rất nhiều chính phủ các quốc gia, các cơ quan khu vực và các tổ chức quốc tế đã xác định các lựa chọn và chất thay thế đối với sử dụng amiăng, và các đánh giá về sức khỏe con người đối với các nguyên vật liệu thay thế cũng đã được công bố. Ví dụ, một hội thảo đã được WHO/ IARC tổ chức năm 2005, và có những ấn phẩm của chính phủ Anh Quốc, Ủy ban Châu Âu và Văn phòng khu vực châu Âu của WHO. Các đánh giá về tính độc hại với sức khỏe con người của các nguyên vật liệu thay thế amiăng trắng đã tập trung vào các loại lựa chọn nguyên vật liệu sợi do những nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến việc hít vào các sợi. Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng đối với một số tác dụng, amiăng trắng có thể được thay thế bằng vật liệu không sợi – ví dụ, polyvinyl chloride (uPVC) không dẻo hóa và thép tấm.
Liệu thiếu báo cáo các ca ung thư trung biểu mô ở một quốc gia có cho thấy rằng không có gánh nặng bệnh tật đáng kể do amiăng gây ra và vì vậy không có lý do phải hành động do ung thư trung biểu mô là một chỉ điểm cụ thể về việc phơi nhiễm amiăng?
Không. Phát hiện các ca ung thư trung biểu mô và việc đo lường chính xác số lượng các ca cần có các hệ thống giám sát mang tính hệ thống ở cấp quốc gia, và các hệ thống này thường không có. Cũng cần ghi nhớ rằng giai đoạn tiềm tàng từ khi phơi nhiễm với amiăng và sự phát triển ung thư trung biểu mô có thể kéo dài tới 40 năm hoặc hơn, và vì thế những hệ thống như vậy cần phải tồn tại bền vững.
Amiăng có khả năng gây ung thư phổi hơn là ung thư trung biểu mô (tỷ lệ nguy cơ ước tính 6:1), và khả năng thì lớn hơn ở những cá nhân hút thuốc lá. Ung thư phổi thì phổ biến hơn nhiều so với ung thư trung biểu mô và là đa yếu tố về nguồn gốc. Một tiền sử phơi nhiễm với amiăng (và điều này có thể bao gồm
cả các môi trường không làm việc, xem ở dưới) trong nhiều năm trước đây có thể dễ bị bỏ qua. Việc hiện nay không có bằng chứng ở cấp quốc gia không phải là bằng chứng không có, và các bài học kinh nghiệm của các nước khác với các dịch ung thư trung biểu mô lớn vẫn đang xảy ra, thậm chí nhiều năm sau việc phơi nhiễm rộng rãi đã bị ngăn chặn, cũng cần phải được xem xét.
Liệu phơi nhiễm amiăng chỉ là một vấn đề nghề nghiệp, không có hoặc có ít nguy cơ đối với quần thể nói chung không?
Không. Nhiều ca ung thư trung biểu mô đã được mô tả với vợ và con của công nhân amiăng là kết quả của phơi nhiễm gia đình (ít nhất 376 ca), ở các nhân viên văn phòng trong ngành công nghiệp amiăng và ở các cá nhân sống gần các mỏ amiăng, vì bị ô nhiễm không khí; bệnh bụi phổi amiăng cũng được báo cáo ở vợ và con cái công nhân amiăng. Các ca ung thư trung biểu mô đã được mô tả ở các cá nhân bị phơi nhiễm với amiăng xảy ra trong tự nhiên hoặc các khoáng chất giống amiăng trong đất ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Síp, Corsica, Sicily, New Caledonia, tỉnh Vân Nam – Trung Quốc và California. Mặc dù nhóm cuối cùng sẽ không được các biện pháp kiểm soát bảo vệ về sản xuất và sử dụng amiăng, các nhóm khác có thể được bảo vệ.
Các loại phơi nhiễm môi trường khác cũng xảy ra. Các báo cáo từ Úc và Anh Quốc đã xác định những nồng độ gia tăng của sợi amiăng trong không khí lân cận ở những điểm giao cắt giao thông bận rộn từ các sản phẩm chịu ma sát của xe cộ. Những phơi nhiễm phi nghề nghiệp gia tăng từ việc cải tạo sửa chữa nhà cửa và các hoạt động bảo dưỡng xe cộ. Ngoài những phơi nhiễm ngề nghiệp của các công nhân xây dựng (vì các biện pháp để kiểm soát phơi nhiễm amiăng khó được triển khai với lực lượng lao động lớn, phân tán có thể bao gồm nhiều người lao động phi chính thức), cũng có khả năng có phơi nhiễm phi nghề nghiệp với chất thải xây dựng có chứa amiăng nếu chất thải không được bảo quản và vứt bỏ một cách đúng đắn. Điều này bao gồm cả tiềm năng chất thải xây dựng có chứa amiăng được quét dọn và tái sử dụng ở các khu định cư phi chính thức.
Mối quan tâm đối với các nhà hoạch định chính sách ngày nay là ít hơn đối với việc phơi nhiễm nghề nghiệp trong khai mỏ và các ngành sản xuất các sản phẩm amiăng và nhiều hơn về việc sử dụng các nguyên vật liệu có chứa amiăng trong ngành công nghiệp xây dựng. Những quan tâm tới việc phơi nhiễm nghề nghiệp trong các hoạt động xây dựng và phơi nhiễm không chủ ý của quần thể lớn hơn từ các nguyên vật liệu xây dựng bị hư hỏng (v.d. tấm lợp mái lượn sóng amiăng bị vỡ) và việc vất bỏ chất thải xây dựng không phù hợp. Việc sử dụng các vật liệu xây dựng có chứa amiăng ở các cộng đồng nghèo nhất, đưa gia đình đến gần hơn với nguồn phơi nhiễm sợi amiăng trắng vẫn là một quan tâm đặc biệt.