TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUYỀN CON NGƯỜI VÙNG DÂN TỘC, MIỀN NÚI (HRC)

» Môi trường & Sức khỏe » Vì sao các nước coi tro xỉ lò nhiệt điện than là tài nguyên? (kì 1)

Vì sao các nước coi tro xỉ lò nhiệt điện than là tài nguyên? (kì 1)

18:09 | 21/04/2023
Không chỉ mạng xã hội, mà ngay cả một số tờ báo chính thống gần đây vẫn đề cập đến vấn nạn của việc xử lý xỉ lò của nhà máy nhiệt điện gây bức xúc trên công luận, trong khi nhiều nước trên thế giới lại coi xỉ lò của nhiệt điện là tài nguyên quý giá?

Tro xỉ nhiệt điện than là nguồn "tài nguyên thứ sinh" quý giá

TS. TÔ VĂN TRƯỜNG

Nhận thức là cả quá trình. Ở Đồng bằng sông Cửu Long thập niên 70-80 do nhu cầu tập trung phát triển lương thực nên có chủ trương đắp đập ngăn mặn để trồng lúa. Nhờ sáng kiến của người dân và chuyển biến nhận thức của những nhà quản lý theo thời gian đã chuyển hướng từ đắp đập ngăn mặn sang kiểm soát mặn làm cống 2 chiều để phù hợp với độ mặn theo thời kỳ sinh trưởng của con tôm, nghĩa là đã biết coi mặn cũng là tài nguyên.

Muốn phát triển kinh tế phải có điện, mà nhiệt điện đáp ứng phụ tải, phát ổn định, diện tích chiếm đất không lớn như thủy điện, điện hạt nhân, điện mặt trời. Công suất điện than ở Việt Nam không phải là lớn so với nhiều nước. Nhưng các nước họ vẫn phát triển ổn định cả mấy thập kỷ rồi, bây giờ người ta lo xử lý chủ yếu là khí phát thải từ nhiệt điện.

Không chỉ mạng xã hội, mà ngay cả một số tờ báo chính thống gần đây vẫn đề cập đến vấn nạn của việc xử lý xỉ lò của nhà máy nhiệt điện gây bức xúc trên công luận, trong khi nhiều nước trên thế giới lại coi xỉ lò của nhiệt điện là tài nguyên?

Việc nhìn nhận ô nhiễm môi trường và cơ hội phát triển phải được đánh giá trên một bài toán và cái nhìn tổng thể. Nếu một người chuyên đấu tranh cho môi trường thì cái nhìn của họ tập trung nhiều vào việc cái gì gây ô nhiễm nhiều, cái gì gây ô nhiễm ít và họ đưa ra những bài viết, nhận xét theo góc nhìn tập trung vào môi trường. Nhiều khi, họ không đủ khả năng phân tích kinh tế và do đó đề ra những giải pháp giảm ô nhiễm môi trường một cách không phù hợp và hơi lý tưởng hóa.

Có bài báo nói than Quảng Ninh có chứa thuỷ ngân ở mức 0,446 mg/kg than rồi từ đó tính ra khối lượng thủy ngân thải ra môi trường là rất không chính xác mà tạo dư luận không tốt trong xã hội. Cách nói là trong than có thủy ngân hay có phóng xạ là cách nói vô trách nhiệm, lợi dụng sự không hiểu biết của người dân để "hù dọa". Bởi vì trong than, hay ngay trong cơ thể con người đều có mọi nguyên tố mà ở vỏ trái đất có, chỉ có điều là hàm lượng bao nhiêu mà thôi. Nói có trách nhiệm là cần vạch rõ sự có mặt của chất đó trong đối tượng muốn nói tới là có vượt ngưỡng cho phép hay không? Còn nếu ở dưới ngưỡng cho phép thì nó là an toàn mà lại là cần thiết.

Nếu đọc kỹ báo cáo gốc của UNEP (2017) thì ta có thể thấy một số điểm chính sau:

1/ Báo cáo này có đưa ra một con số trung bình cho than ở các mỏ Quảng Ninh ở mức 0,446 mg/kg, tuy nhiên trong 8 mỏ chỉ có 3 mỏ có hàm lượng Hg trung bình từ mức 0,4 mg/kg trở lên (xem bảng 1). Với số mẫu khá nhỏ nên các con số này chỉ mang tính tham khảo.

Bảng 1. Hàm lượng Hg trong các mẫu than tại các mỏ than Quảng Ninh [*]

Nguồn: UN Environment, 2017. Reducing mercury emissions from coal combustion in the energy sector in Vietnam. UN Environment, Chemicals and Health Branch, Geneva, Switzerland.

2/ Cũng theo báo cáo của UNEP, thì mặc dù hàm lượng Hg trong than khai thác ở một số mỏ khá cao, tuy nhiên than sử dụng trong nhiệt điện lại chỉ có hàm lượng Hg ở mức 0,10-0,97 mg/kg, trừ nhiệt điện Uông Bí có hàm lượng Hg ở mức cao hơn rất nhiều (xem hình 1).

Hình 1: Hàm lượng Hg ở than đầu vào của một số nhà máy nhiệt điện:

Báo cáo của UNEP cũng cho thấy hàm lượng Hg ở xỉ đáy lò (bottom ash) là không đáng kể, trong khi hàm lượng Hg ở tro bay (fly ash - được thu hồi ở bộ lọc bụi tĩnh điện ESP) là khá cao (trên 1000 mg/kg tro bay) dù hàm lượng Hg than đầu vào ở mức thấp, điều này cho thấy hiệu năng lọc bụi tĩnh điện ở các nhà máy nhiệt điện than Việt Nam là khá cao (xem bảng 2).

Bảng 2. Hàm lượng Hg (mg/kg) ở một số nhà máy nhiệt điện than được khảo sát giai đoạn 2015-2016:

Nếu đánh giá kỹ hơn về bản chất Hg trong tro bay thì dù hàm lượng theo mg/kg cao nhưng lượng đó không độc. Quy chuẩn Việt Nam (QCVN) yêu cầu phải tính hàm lượng ngâm chiết để xem chất độc có khả năng ngấm ra không. Hàm lượng ngâm chiết thường nhỏ hơn rất nhiều so với hàm lượng tuyệt đối. Tro bay chiếm 60-70% lượng tro xỉ thải ra. Các nhà máy nhiệt điện than ở miền Bắc tro bay ra đến đâu có doanh nghiệp lấy hết đến đó. Miền Nam Trung bộ còn lạ với vật liệu này và số nhà máy xi măng, bê tông đúc sẵn quá ít nên tiêu thụ kém.

Cũng cần nhắc lại là khá nhiều các đập thuỷ điện (bao gồm cả Thuỷ điện Sơn La) sử dụng tro bay làm phụ gia quan trọng trong công nghệ bê tông đầm lăn (RCC).

Bài toán phát triển năng lượng

Năng lượng là sự khai thác tài nguyên để thực hiện các hoạt động sản xuất và phục vụ đời sống. Vậy tùy thuộc vào vị trí địa lý, đặc trưng nguồn tài nguyên của mỗi quốc gia thì quốc gia đó có thể sử dụng một loại năng lượng khác nhau.

Trung Đông có nguồn năng lượng dầu, khí dồi dào. Muốn bảo họ dùng than cũng khó mà dùng than có khi còn đắt hơn. Mỹ thì gần đây sử dụng nhiều năng lượng từ khí vì các mỏ khí được tìm ra và khai thác nhiều hơn với giá thành thấp. Canada, Thụy Điển và Na Uy thì dùng nhiều thủy điện vì họ có tiềm năng. Pháp, Nhật không có tiềm năng nào lớn thì dùng điện nguyên tử. Nhật khi sợ điện nguyên tử qua một vài thảm họa thì chuyển sang nhiệt điện than.

Gần đây, châu Âu đang cố sức tìm nguồn năng lượng tái tạo mới như điện mặt trời, gió, sinh khối để giảm bớt phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Nhưng họ có nguồn lực, giàu có và có trách nhiệm. Nhu cầu năng lượng của họ tăng thêm hàng năm rất thấp. Các nước Đông Âu thì không được như vậy và Ba Lan phụ thuộc tới 90% vào nhiệt điện than.

Việt Nam với nhu cầu năng lượng tăng lên tỉ lệ với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đã tận dụng tối đa nguồn thủy điện và nhiệt điện khí từ các mỏ dầu khí hiện có. Việt Nam cũng đã dự định làm điện nguyên tử, nhưng đã tạm dừng. Nước ta, đang tận dụng tiếp nguồn than trong nước và đã nhập khẩu than với tỉ trọng ngày càng tăng khi nguồn than trong nước dần cạn kiệt và đang tìm cách nhập khẩu khí LNG, đã cố gắng phát triển điện gió, mặt trời, sinh khối v.v... Mỗi cái đều có ưu, nhược điểm và khả năng sử dụng riêng tùy theo đặc điểm địa phương, sự phát triển của khoa học - công nghệ trong mỗi giai đoạn.

Về cơ bản, nhiệt điện than vẫn có nhiều ưu điểm như diện tích chiếm đất không lớn, đã giải quyết hầu hết các vấn đề môi trường, than nhập khẩu có hàm lượng tro rất thấp chỉ 4 - 6% so với 25-30% của than trong nước, vận hành ổn định, ít phụ thuộc các yếu tố bất thường nên gánh phụ tải nền tốt bởi vậy tỉ trọng có tăng lên trong giới hạn chấp nhận được.

Như vậy, về cơ bản, Việt Nam đang và cần đa dạng hóa các loại hình nhưng cũng không thoát ra được bài toán kinh tế - xã hội, môi trường song song. Nếu muốn môi trường tốt hơn thì hãy tăng giá năng lượng và thắt chặt hơn các quy định về thuế môi trường. Ngoài bài toán năng lượng ra thì chúng ta cũng đang có vấn đề về rác thải, về tài nguyên nước và nước thải đều có giá thành rẻ. Muốn tốt mà giá rẻ thì chỉ là hàng mã. Muốn môi trường tốt mà giá điện rẻ, nước rẻ và rác thải rẻ thì chỉ có bọn lách luật và chạy dự án lòng vòng. Ép chặt hơn thì không có nhà đầu tư, còn chết nữa.

Ngoài ra, giá rẻ còn kích thích sự tiêu dùng phí phạm như dùng điện để đào bitcoin, dùng nước lãng phí và xả rác bừa bãi v.v...

Nguồn: Internet

Tin cùng loại