TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUYỀN CON NGƯỜI VÙNG DÂN TỘC, MIỀN NÚI (HRC)

» Môi trường & Sức khỏe » Báo động tình trạng gia tăng rác thải nguy hại, chất độc amiang tại Việt Nam

Báo động tình trạng gia tăng rác thải nguy hại, chất độc amiang tại Việt Nam

18:26 | 21/04/2023

Rác thải nguy hại ngày càng tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường

Theo thông tin từ Bộ TN&MT, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm do rác thải nguy hại đặc biệt là rác thải nhựa ngày càng gia tăng. Ước tính, mỗi năm, có hơn 1,8 triệu tấn rác thải nhựa thải ra tại Việt Nam nhưng chỉ 27% trong số đó được tái chế. Việt Nam cũng đang đối mặt với nguy cơ trở thành bãi tập kết rác toàn cầu với lượng rác thải nhựa tăng đến 200% trong năm qua…

Đáng chú ý, lượng chất thải nhựa và túi nilon của cả nước chiếm khoảng 8 - 12% trong chất thải rắn sinh hoạt, đây là gánh nặng cho môi trường, thậm chí dẫn tới thảm họa "ô nhiễm trắng". Trong khi đó, tại các thành phố lớn ở Việt Nam, tỷ lệ phân loại chất thải tại nguồn rất thấp, công nghệ tái chế nhựa lỗi thời, hiệu quả thấp, chi phí cao và gây ô nhiễm môi trường.

Số liệu thống kê từ Bộ TN&MT cũng cho thấy, từ năm 2010 đến 2018, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tăng trung bình hằng năm khoảng 12%. Năm 2015, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 42.790 tấn/ngày; năm 2018 tăng lên đến khoảng 61.600 tấn/ngày, trong đó khu vực đô thị khoảng 37.200 tấn/ngày và khu vực nông thôn khoảng 24.400 tấn/ngày.

Các địa phương có khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên 6000 tấn/ngày chiếm tỷ lệ 3,17%; khối lượng lớn hơn 1000 tấn/ngày chiếm 7,9%; lớn hơn 600 tấn/ngày chiếm 23,8%; lớn hơn 200 tấn/ngày chiếm 36,5%, và nhỏ hơn 200 tấn/ngày chiếm tỷ lệ 28,6%.

Riêng về chất độc hại amiang, theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đến nay có hơn 100 nghìn người chết do các bệnh liên quan đến amiang. Trong đó, Việt Nam nằm trong top 7 nước sử dụng nhiều amiang nhất thế giới. Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, trong nhiều năm, lượng amiang nhập vào khoảng trên dưới 60 nghìn tấn/năm. Hiện nay, cao điểm là nhập khẩu tới 10 nghìn tấn amiang/năm.

Riêng trong lĩnh vực tấm lợp, sản lượng sản xuất và tiêu thụ trung bình khoảng 75-80 triệu m2/năm, khi những tấm lợp này hư hỏng hay bị thay thế thì việc xử lý để bảo đảm an toàn không hề đơn giản. Theo thống kê của thế giới, có hơn 80% ung thư trung biểu mô là do nhiễm độc amiang.

Cần có giải pháp triệt để

Theo Kỹ sư Nguyễn Văn Khuông, Hội An toàn và vệ sinh lao động Việt Nam, hiện chưa có chế tài nào áp dụng cho việc phân loại chất thải rắn tại nguồn và không có quy định đồng bộ cho các công đoạn thu gom, xử lý. Hiện Việt Nam còn khoảng 132 bãi chôn lấp đã được rà soát, thống kê là cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và cần phải xử lý ô nhiễm triệt để đến năm 2020.

Kỹ sư Nguyễn Văn Khuông cho biết, có rất nhiều nguồn phát sinh chất thải nguy hại, thực trạng này đã gây không ít khó khăn trong việc quản lý và phân loại. Không chỉ riêng các khu sản xuất mà mỗi cá nhân cũng cần ý thức được mối hiểm họa từ chất thải nguy hại, từ đó, có cách thức xử lý đúng cách. Hiện nay, các nguồn phát sinh chất thải nguy hại cơ bản bao gồm: Sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, trong xây dựng, chăm sóc y tế, rác thải sinh hoạt...

Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay các chôn lấp tiếp nhận chất thải rắn sinh hoạt chưa được phân loại tại nguồn, bãi rác lộ thiên, không có hệ thống thu gom và xử lý nước rỉ rác, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Không dừng lại ở đó, hiện nay, một số quy định của pháp luật liên quan đến quản lý chất thải nguy hại còn chung chung, trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với chủ thể vi phạm còn thấp, dẫn đến tình hình vi phạm về quản lý chất thải nguy hại gia tăng. Quy định về chủ xử lý chất thải về vận chuyển chất thải mới chỉ dừng lại ở việc chịu hoàn toàn trách nhiệm nhưng chịu trách nhiệm như thế nào, hình thức ra sao thì hiện nay pháp luật vẫn chưa quy định rõ ràng.

Riêng về chất thải là bột và sợi amiang thải và chất thải có chứa amiang hiện còn bất cập khi Thông tư 36/2015-BTNMT của Bộ Tài nguyên Môi trường có xếp “vật liệu xây dựng thải chứa amiang” là chất thải nguy hại, nhưng lại không kể “tấm lợp amiang – xi măng”. Như vậy, hàng nghìn tỷ m2 tấm lợp chứa amiang đã được sản xuất, sử dụng, phá vỡ, phân hủy đã làm phát tán bụi và sợi amiang ra môi trường không là chất thải nguy hại như Tiêu chuẩn Việt Nam 6706:2009.

Kỹ sư Khuông cảnh báo, chúng ta đang có 10 triệu tấn chất thải amiang đã và đang trở thành chất thải. Nếu chúng ta không đưa vấn đề này vào Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi để trình Quốc hội trong kỳ họp tới đây thì rất nguy hiểm cho tương lai sức khỏe của người dân Việt Nam. Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi cần phải quản lý chất thải nguy hại theo thông lệ quốc tế, theo các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Ông Khuông nhấn mạnh, để quản lý và xử lý chất thải nguy hại, trong đó có amiang, cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến quản lý, xử lý chất thải nguy hại như tăng nặng chế tài xử phạt hành vi vi phạm. Đồng thời, cần nâng cao chất lượng quản lý chất thải nguy hại thông qua nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và kỹ thuật trong xử lý chất thải nguy hại.

Bởi vậy, việc tăng cường công tác quản lý chất thải rắn và nguy hại ở các doanh nghiệp, các khu công nghiệp từ chủ nguồn thải đến người thu gom, vận chuyển, lưu giữ và xử lý cần được theo dõi chặt chẽ, để chất thải công nghiệp được đưa đi xử lý triệt để nhằm bảo vệ môi trường.

Liên quan tới vấn đề trên, GS.TS. Lê Vân Trình - Chủ tịch Hội An toàn và vệ sinh lao động Việt Nam cho biết cho tới nay, vẫn có một rủi ro tiềm ẩn không chỉ đối với cộng đồng dân cư nói chung mà cả môi trường, đặc biệt là việc tháo dỡ, thay thế, xói mòn và phong hoá vật liệu xây dựng amiang - xi măng. Ở các nước phát triển các biện pháp phòng tránh tác hại của amiang đã đề ra từ quản lý các vật liệu amiang đang còn sử dụng, đến loại bỏ nó. Trong nhiều năm tới, các nước sẽ phải rất nỗ lực để loại bỏ một cách có hệ thống và xử lý an toàn các sản phẩm có chứa amiang tránh phát tán sợi và gây ra mối đe doạ nghiêm trọng đối với sức khoẻ của người lao động và người dân

Nguồn: NLĐ

 

Tin cùng loại