TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUYỀN CON NGƯỜI VÙNG DÂN TỘC, MIỀN NÚI (HRC)

» Kinh nghiệm quốc tế » Chính sách ‘một quốc gia, hai chế độ’ là gì?

Chính sách ‘một quốc gia, hai chế độ’ là gì?

21:47 | 26/04/2023
Chính sách ‘một quốc gia, hai chế độ’ là gì?

Hàng trăm ngàn người biểu tình đã liên tục xuống đường ở Hồng Kông vào tháng 6 vừa qua để phản đối một dự luật được đề xuất cho phép dẫn độ các nghi phạm hình sự sang Trung Quốc đại lục. Các cuộc biểu tình này nằm trong số những cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử Hồng Kông, và đã đóng vai trò quan trọng trong việc thuyết phục Đặc khu trưởng Hồng Kông, bà Carrie Lam, đình chỉ dự luật này. Để thực hiện hành động phản đối này, người Hồng Kông đã sử dụng các quyền tự do vốn bị từ chối ở Trung Quốc đại lục. Nguồn gốc của các quyền tự do này là gì?

Vào cuối thế kỷ 20, có ba vùng lãnh thổ lịch sử của Trung Quốc vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đó là Đài Loan, Ma Cao và Hồng Kông. Không lâu sau khi nổi lên trở thành lãnh đạo tối cao của Trung Quốc năm 1978, Đặng Tiểu Bình tuyên bố tham vọng nhằm đạt được sự “thống nhất” với Đài Loan. Hòn đảo này về mặt kỹ thuật vẫn là thành trì cuối cùng của một chính phủ từng cai trị toàn bộ Trung Quốc cho đến khi cuộc nội chiến kết thúc với chiến thắng của phe Cộng sản vào năm 1949, đẩy quân đội của Quốc Dân đảng bại trận phải lưu vong tới Đài Loan. Kể từ đó, Đài Loan đã trở thành một nền dân chủ, và người dân ngày càng xác định rõ ràng rằng họ là “người Đài Loan”. Các lãnh đạo ở Bắc Kinh đã thề rằng họ sẽ thống nhất hòn đảo với đại lục, bằng vũ lực nếu cần thiết.

Đặng Tiểu Bình hứa hẹn với Đài Loan một “mức tự trị cao”, gọi đề xuất của ông bằng cái tên “một quốc gia, hai chế độ”. Đài Loan sẽ được phép duy trì chính quyền độc lập, lối sống tư bản và thậm chí cả lực lượng vũ trang của riêng mình miễn là họ công nhận chính quyền Cộng sản ở Bắc Kinh là hợp pháp trên khắp Trung Quốc, bao gồm cả Đài Loan.

Người Đài Loan đã không mắc bẫy, nhưng Trung Quốc đã sử dụng ý tưởng “một quốc gia, hai chế độ” khi họ tiếp nhận lại Hồng Kông từ Anh và Ma Cao từ Bồ Đào Nha. Nước Anh đã giành được khu vực trung tâm Hồng Kông vĩnh viễn như là một chiến lợi phẩm trong Chiến tranh thuốc phiện hồi thế kỷ 19, nhưng phần cuối cùng, Vùng Lãnh thổ Mới, mà Anh có được là theo một hợp đồng thuê đất 99 năm được ký vào năm 1898. Người Bồ Đào Nha đã cai trị Macau từ những năm 1500, nhưng cuối cùng bắt đầu rút quân vào năm 1975. Khi hợp đồng thuê đất của Anh sắp hết hạn và Bồ Đào Nha từ bỏ Macau, Trung Quốc bắt đầu đàm phán với cả hai quốc gia này vào giữa những năm 1980 về việc trả lại hai lãnh thổ này và quyết định các thỏa thuận chính trị trong tương lai. Hồng Kông và Ma Cao lần lượt trở thành một phần của Trung Quốc vào năm 1997 và 1999.

Tất cả các bên, bao gồm Trung Quốc, đã công nhận rằng việc áp đặt hệ thống chính trị của Trung Quốc lên hai khu vực thuộc địa này sẽ tạo ra sự hoảng loạn và tình trạng nhiễu loạn kinh tế. Chính sách “một quốc gia, hai chế độ” sẽ cho phép các vùng lãnh thổ giữ nguyên tình trạng ban đầu, với các hệ thống pháp luật và lực lượng cảnh sát độc lập. Cấu trúc chính trị của họ sẽ thay đổi rất ít, ngoại trừ việc các “đặc khu trưởng” người địa phương sẽ thay thế các thống đốc được bổ nhiệm bởi các cường quốc thực dân.

Tại Hồng Kông, Đặc khu trưởng sẽ được bầu bởi một cử tri đoàn bao gồm 1.200 thành viên từ danh sách các ứng viên được chính phủ Trung Quốc phê chuẩn và sẽ lãnh đạo một hệ thống được mô phỏng theo hệ thống của Anh quốc, mặc dù chỉ có một viện lập pháp. Trung Quốc thậm chí còn hứa hẹn rằng các Đặc khu trưởng cuối cùng sẽ được bầu thông qua “phổ thông đầu phiếu”, mặc dù ý nghĩa chính xác của khái niệm này trong bối cảnh đó vẫn chưa rõ ràng. Chính phủ ở Bắc Kinh sẽ chịu trách nhiệm về vấn đề quốc phòng và ngoại giao.

Những dàn xếp này sẽ kéo dài trong 50 năm. Điều gì sẽ xảy ra sau năm 2047 vẫn chưa rõ ràng. Trong khi đó, các nhà hoạt động dân chủ ngày càng trở nên nản lòng khi các lực lượng thân chính quyền, một phần trong số đó được tài trợ bởi Bắc Kinh, đã chiếm được đa số ghế trong các hội đồng địa phương và cơ quan lập pháp của Hồng Kông, và các cuộc kiểm tra lòng trung thành (với Đại lục) mới đã được áp dụng đối với các ứng viên. Sự thất vọng đã dẫn tới Phong trào Dù vàng năm 2014, với một loạt các hoạt động phản kháng và các cuộc biểu tình ngồi nhằm đòi Trung Quốc thực hiện lời hứa về nền dân chủ thực sự.

Đáp lại, chính quyền Bắc Kinh lại càng quyết tâm để thực hiện vế “một quốc gia” trong thỏa thuận này. Trong năm 2016 và 2017, họ đã khai trừ sáu nhà lập pháp vì đã không tôn trọng Trung Quốc khi đọc sai lời tuyên thệ trung thành (khi bắt đầu nhiệm kỳ). Năm nay, họ đã thay đổi hiến pháp Hồng Kông để yêu cầu thông qua một đạo luật nhằm trừng phạt những người nào xúc phạm quốc ca, phỏng theo một đạo luật mà Trung Quốc đã thông qua vào năm 2017. Và Bắc Kinh đã thúc đẩy việc thay đổi hệ thống luật pháp thời thuộc địa hiện hành, vốn ngăn cản việc dẫn độ tội phạm tới Trung Quốc. Dự luật được đề xuất không áp dụng cho các tội phạm chính trị, nhưng nhiều người lo ngại rằng Đảng Cộng sản có thể sử dụng nó làm cơ sở để thực hiện việc dẫn độ những người bị cho là đã vi phạm.

Mặc dù bà Lam đã đình chỉ dự luật dẫn độ, các nhà quan sát chính trị lâu năm vẫn dự kiến rằng Đảng Cộng sản sẽ thắt chặt sự kìm kẹp của mình theo vô số cách khó nhìn thấy hơn. Chính quyền trung ương vẫn ca ngợi chính sách “một quốc gia, hai chế độ” là một sự sáng tạo tuyệt vời. Hồi tháng Giêng, lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách này đối với việc đảm bảo điều mà ông gọi là sự thống nhất “không thể tránh khỏi” giữa đại lục và Đài Loan. Rất ít người ở Đài Loan cảm thấy bị thuyết phục. Các sự kiện gần đây tại Hồng Kông chỉ làm tăng sự nghi ngờ của họ. Giải pháp sáng tạo của Đặng  cho vấn đề thống nhất chưa bao giờ phải đối mặt với một sự hoài nghi lớn đến thế.

 

Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan
 

 

Tin cùng loại