Ảnh chụp năm 2011
Tuy vẫn khẳng định đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo và giảm dần tỷ trọng nhiệt điện than theo xu thế chung của thế giới nhưng bản dự thảo quy hoạch phát triển ngành điện 2021-2045 của Bộ Công thương vẫn đề xuất phát triển thêm gần 17 GW điện than trong giai đoạn 2021-2030, tăng gần 83% so với công suất hiện tại và nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ trọng tới 41% tổng sản lượng điện sản xuất trong năm 2030. Vì sao có nghịch lý này?
Ngày 22/2/2021 bản dự thảo “Quy hoạch phát triển ngành điện 2021-2045” hay còn gọi là Quy hoạch điện 8 (QHĐ 8) hay Tổng sơ đồ 8 (TSĐ 8) đã được đăng tải trên website của Bộ Công thương để lấy ý kiến các cơ quan, ban ngành. Động thái này đã được đánh giá cao vì lần đầu tiên toàn văn của một dự thảo quy hoạch điện của Việt Nam được đưa ra công khai và tham vấn rộng rãi. Tuy có nhiều điểm được đánh giá tiến bộ, dự thảo này cũng bị phê phán không ít, đặc biệt trong vấn đề quy hoạch nhiệt điện than (NĐT).
Nhiệt điện than: Rẻ hay đắt?
Kiến nghị góp ý của Liên minh năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), Liên minh Phòng chống các Bệnh không lây nhiễm Việt Nam (NCDs-VN) và Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN) có lẽ là một trong nhưng góp ý đầu tiên cho QHĐ 8. Được gửi tới Bộ Công thương vào ngày 2/3/2021, nghĩa là 8 ngày sau dự thảo này được công bố, kiến nghị của ba liên minh nêu rõ: Bản dự thảo cho thấy Việt Nam vẫn ưu tiên phát triển nhiệt điện than trong vòng 10 năm tới (2021-2030) vì đã bổ sung gần 17 GW điện than mới vào hệ thống, nâng công suất điện than của Việt Nam từ 20,4 GW năm 2021 lên 37,3 GW vào năm 2030. Kiến nghị cho rằng việc tiếp tục phát triển nhiệt điện than của Việt Nam là đi ngược lại với xu thế đóng cửa các nhà máy điện than của thế giới nhằm bảo vệ môi trường và sức khỏe người dân. Vì vậy, ba liên minh này đã kiến nghị Bộ Công thương “không phát triển thêm các dự án điện than mới, đặc biệt là trong giai đoạn 10 năm tới.”
Giải thích về kiến nghị này, trong một diễn đàn trực tuyến vào cuối tuần qua, bà Nguyễn Thị Hằng, điều phối viên VSEA cho biết kế hoạch phát triển nhiệt điện than của QHĐ 8 có nhiều điểm đang lo ngại. Điều đầu tiên mà bà nhắc đến đó là việc chưa thấy có các tính toán cụ thể về tác động môi trường và xã hội trong khi những tác động này thường là nguyên nhân khiến nhiều quốc gia quyết định chia tay với nhiệt điện than cũng như gây bức xúc cho người dân trong nước.
“Trong bản đánh giá môi trường chiến lược được đăng tải trên website của Bộ Công thương, chúng tôi thấy giật mình vì chương số 3, chương quan trọng nhất đánh giá về môi trường xã hội của các loại hình năng lượng lại bị khuyết. Chúng tôi không biết vì sao những thông tin về đánh giá môi trường xã hội và lượng hóa kinh phí bằng tiền của những tác động này chưa có” – bà Hằng nói.
Bà cho biết, mới đây của Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch (CREA) tiến hành một nghiên cứu đánh giá tác động của các nhà máy nhiệt điện than ở 10 địa phương dự kiến bổ sung các dự án mới theo dự thảo QHĐ 8 và nghiên cứu này đã đưa ra những con số rất đáng báo động. Cụ thể khi được xây dựng và vận hành, 16 dự án điện than mới với tổng công suất khoảng 22GW của QHĐ 8 sẽ gây ra gần 1.000 ca tử vong sớm ở Việt Nam đồng thời gây tổn thất kinh tế cho xã hội (do chi phí y tế, giảm năng suất lao động và tuổi thọ) ước tính vào khoảng 270 triệu USD hàng năm.
“Với vòng đời của 1 dự án điên than tối thiểu cũng 30 năm thì tích lũy là một con số rất lớn, rất đáng lưu tâm. Trong vòng 30 năm sẽ có 46.000 ca tử vong sớm và chi phí kinh tế sẽ lên tới 8 tỷ USD” – bà Hằng nói tiếp và cho rằng những chi phí này sẽ làm cho chi phí thật của việc sử dụng nhiệt điện than không còn rẻ như chúng ta thường nghĩ.
“Năm 2017 chúng tôi có lượng hóa nhanh những tác động môi trường xã hội được tính vào giá thành điện thì con số như thế nào. Cụ thể, nếu không tính toán những tác động môi trường xã hội thì điện than có giá là 7,3 xu Mỹ/kWh nhưng nếu có tính thì trên 12,4 xu/kWh và trở thành loại hình điện đắt đỏ nhất vào thời điểm đó” – bà Hằng cho biết.
Tiến sĩ, chuyên gia độc lập Ngô Đức Lâm cho rằng nhiệt điện than có ưu điểm tạo ra nguồn điện ổn định, giúp bù đắp sự thiếu ổn đinh của điện gió và mặt trời do phụ thuộc nhiều vào thời tiết và chỉ tập trung phát điện vào một số thời điểm trong ngày. Tuy vậy, ngoài những tác động tiêu cực về môi trường và xã hội, việc đẩy tăng cường phát triển nhiệt điện than như trong QHĐ 8 còn mang đến nhiều rủi ro khác, trong đó có vấn đề khả năng huy động vốn và nguồn than nhiên liệu.
Ông cho biết nguồn vốn để làm NĐT rất lớn vì vậy Việt Nam thường phải vay vốn nước ngoài để phát triển loại hình năng lượng này. Tuy nhiên, thực tế trong những năm gần đây cho thấy việc vay vốn cho NĐT rất khó vì kể từ sau Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu (COP 21) vào năm 2015, thế giới có xu hướng chuyển sang năng lượng tái tạo, hạn chế phát triển NĐT để giảm phát thải khí nhà kính.
“Thế giới hiện có những rào cản kỹ thuật là không cho vay tiền để làm nhiệt điện than. Không chỉ có World Bank, ADB, các nhà đầu tư khác cũng rút, không xây nhiệt điện than nữa nên từ năm 2018, nhiệt điện than ở Việt Nam đã gần như không phát triển được và phải chuyển nhanh sang năng lượng tái tạo” – ông Lâm nói.
Nhìn về vấn đề nguyên liệu than, ông cho biết theo QHĐ 8, dự kiến Việt Nam sẽ phải phải nhập tới 55 triệu tấn than vào năm 2030 và từ 80-100 triệu tấn vào năm 2045 trong khi giá than ước tính tăng bình quân khoảng 5%/năm. Theo ông, với kế hoạch này, Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều vào nguồn cung bên ngoài, trong khi khả năng nhập khẩu từ các nguồn đang được xác định trong dự thảo dự báo gặp nhiều khó khăn. Ông cho rằng trong bối cảnh NLTT trong nước đang phát triển mạnh, thậm chí đã dư thừa và nguồn khí lớn từ mỏ Kèn Bầu được dự báo có thể khả thi từ năm 2028 thì Việt Nam cần cân nhắc có nên nhập than và phát triển nhiệt điện than nhiều như dự thảo đề ra hay không.
Nguồn: Internet