“Nghiện than” đe dọa an ninh năng lượng
Trung Quốc đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng năng lượng tồi tệ nhất trong một thập kỷ, với tình trạng thiếu than dẫn đến tình trạng phải cắt giảm điện và thu hẹp sản xuất. Tương tự, Ấn Độ cũng đang đứng trên bờ vực của một cuộc khủng hoảng điện, do trữ lượng than ở mức thấp chưa từng thấy. Một số bang, như Rajasthan, đã lên lịch cắt điện và một số nhà máy nhiệt điện trên khắp đất nước đã đóng cửa.
Các vấn đề xảy đến bởi vô số yếu tố tác động, bao gồm giá than toàn cầu tăng cao, hoạt động kinh tế gia tăng, gián đoạn nguồn cung liên quan đến lũ lụt và cả căng thẳng địa chính trị. Trung Quốc đã áp đặt lệnh cấm không chính thức đối với nhập khẩu than từ Australia – một trong những nước xuất khẩu than lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng sự bất ổn của chuỗi cung ứng than có thể là một lợi ích cho năng lượng sạch, thúc đẩy đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực này.
Tim Buckley – Giám đốc nghiên cứu tài chính năng lượng của Australia và Nam Á, tại Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính (IEEFA) – nói với TIME: “Phản ứng đầu tư mà tôi mong đợi sẽ là việc lắp đặt năng lượng tái tạo của Ấn Độ và Trung Quốc tăng gấp đôi, gấp ba lần, vì cách tốt nhất để giải quyết khủng hoảng là giải quyết vấn đề an ninh năng lượng của chính quốc gia”.
Thực tế, bất chấp mối quan tâm toàn cầu về phát thải khí nhà kính và những lời kêu gọi khẩn cấp hành động để tránh những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu, phần lớn châu Á – Thái Bình Dương vẫn phụ thuộc vào than đá, loại nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm nhất. Đặc biệt, Trung Quốc và Ấn Độ là những nước tiêu thụ than lớn nhất thế giới.
Nhiên liệu hóa thạch chiếm khoảng 70% sản lượng điện của Ấn Độ, trong khi 56% sản lượng điện của Trung Quốc được tạo ra bằng cách đốt than. Điều này đã dẫn đến hậu quả vô cùng tai hại: Trung Quốc là quốc gia ô nhiễm nhất thế giới và Ấn Độ đứng thứ 3, sau Mỹ.
Theo Đánh giá thống kê về Năng lượng Thế giới năm 2021 của British Petroleum (BP), hơn một nửa tổng lượng than tiêu thụ trên toàn cầu vào năm 2020 được sử dụng ở Trung Quốc, khiến châu Á trở thành khu vực tiêu thụ than lớn nhất toàn cầu. Sau Trung Quốc và Ấn Độ, Indonesia cùng Nhật Bản là những nước tiêu thụ than lớn nhất ở châu Á. Cộng lại, 2 quốc gia này đã tiêu thụ nhiều than hơn toàn bộ châu Phi trong năm 2020.
Châu Á cũng là khu vực sản xuất hơn 75% lượng than của thế giới, với Trung Quốc, Indonesia, Australia và Ấn Độ dẫn đầu. Theo một báo cáo hồi tháng 6 của Carbon Tracker, Trung Quốc và 4 quốc gia khác gồm Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản và Việt Nam, đang chiếm hơn 80% các nhà máy điện than được quy hoạch trên toàn thế giới.
Các nhà bảo vệ môi trường đã bày tỏ lo ngại rằng tình trạng thiếu hụt năng lượng hiện nay có thể được sử dụng để biện minh cho việc tăng sản lượng than trong nước ở Ấn Độ và Trung Quốc. Năm 2019, Ấn Độ công bố kế hoạch thúc đẩy sản xuất than trong nước lên một tỷ tấn vào năm 2024. Trong nửa đầu năm 2021, Trung Quốc đã công bố kế hoạch xây dựng 43 nhà máy nhiệt điện than mới.
Giải pháp năng lượng xanh
Chính trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay, những lập luận về đầu tư năng lượng sạch hơn ngày càng trở nên thuyết phục. Các chi phí tăng vọt của than đá và nhiên liệu hóa thạch khác – một trong những yếu tố gây ra các cuộc khủng hoảng năng lượng – cho thấy năng lượng tái tạo có sức cạnh tranh, vượt qua e ngại đầu tư đắt đỏ. “Kinh tế học đã chiến thắng trong cuộc đua này”, chuyên gia Buckley của IEEFA nói.
Các vấn đề về nguồn cung than hiện tại có thể đã khiến Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi tập trung trở lại nỗ lực vào mục tiêu biến Ấn Độ thành một quốc gia “độc lập về năng lượng” vào năm 2047, ít phụ thuộc hơn vào nhiên liệu hóa thạch – một mục tiêu mà ông đã công bố vào tháng 8 năm nay.
Không giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Ấn Độ chưa cam kết giảm lượng khí thải carbon dioxide của mình xuống bằng 0, và họ cho rằng không nên cắt giảm sâu như các nước phát triển vì cần ưu tiên tăng trưởng. Nhưng ít nhất, quốc gia này cũng đã đặt mục tiêu đạt được 450 GW công suất tái tạo vào năm 2030 và năng lượng mặt trời được thiết lập, để thúc đẩy tăng trưởng ngành này trong nước.
Điều đó thực sự đã bắt đầu diễn ra. Tháng trước, một công ty khai thác than thuộc sở hữu nhà nước chiếm hơn 80% sản lượng than của toàn Ấn Độ đã đấu thầu để xây dựng một cơ sở sản xuất năng lượng mặt trời 4 GW trong tương lai tại nước này. Trong khi đó, tập đoàn lớn nhất của Ấn Độ, Reliance Industries, đã công bố một số thỏa thuận năng lượng sạch trong những ngày gần đây, bao gồm cả việc mua lại một công ty sản xuất năng lượng mặt trời lớn của châu Âu .
Trung Quốc đã cam kết mục tiêu “trung hòa carbon” vào năm 2060 và bắt đầu cắt giảm việc sử dụng than từ năm 2026. TIME dẫn lời Dimitri de Boer – người đứng đầu tổ chức luật môi trường ClientEarth của Trung Quốc – cho biết, Chính phủ Bắc Kinh sẽ không từ bỏ những mục tiêu đó, bất chấp tình trạng thiếu hụt hiện nay. Theo ông, ngay cả khi sản lượng than tăng lên, các biện pháp kiểm soát đối với các dự án tiêu thụ nhiều năng lượng tại Trung Quốc vẫn đang được tăng cường. Trung Quốc đã là nước dẫn đầu về năng lượng tái tạo, chiếm khoảng 50% tốc độ tăng trưởng năng lượng tái tạo của thế giới vào năm 2020.
Ủy ban châu Âu (EC) ngày 13/10 cũng đã công bố một loạt các biện pháp dài hạn mà Liên minh châu Âu (EU) phải xem xét để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, nhằm giải quyết sự biến động giá năng lượng kỷ lục như hiện nay. Giá khí đốt bán buôn – đã tăng kỷ lục tới 200% ở Pháp, Tây Ban Nha, Đức và Italia – dự kiến sẽ vẫn ở mức cao trong suốt mùa Đông này. Theo Ủy ban, giá dự kiến sẽ chỉ giảm vào mùa Xuân, nhưng vẫn cao hơn mức trung bình của những năm qua, khi hầu hết các nước EU dựa vào các nhà máy điện chạy bằng khí đốt từ Nga để đáp ứng nhu cầu điện.
“Chúng ta đối mặt với sự gia tăng giá năng lượng không phải vì chính sách khí hậu hay vì năng lượng tái tạo quá đắt tiền. Chúng ta đang đối mặt với điều đó vì giá nhiên liệu hóa thạch tăng vọt” – Ủy viên Năng lượng của EU Kadri Simson phát biểu trước báo giới hôm 13/10 – “Kinh nghiệm này là một lời cảnh tỉnh rõ ràng, rằng chúng ta nên đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch, loại bỏ sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch”.
Theo bà Simson, ưu tiên trước mắt của khối vẫn là giảm thiểu tác động của việc tăng giá đối với người tiêu dùng dễ bị tổn thương và các DN nhỏ, có thể được điều chỉnh vào mùa Xuân khi tình hình giá năng lượng sẽ ổn định. Nhưng về trung hạn, EC sẽ hành động để đảm bảo một hệ thống linh hoạt và bền bỉ hơn có thể chịu được sự biến động trong tương lai trong suốt quá trình chuyển đổi năng lượng. Simson cho biết, bà cũng đề xuất với các nhà lãnh đạo EU về một gói các biện pháp nhằm khử cacbon trên thị trường khí đốt và hydro của châu Âu vào năm 2050.
Nguồn: Internet